Hoàng sa, Trường Sa, Cha Rồng biển Đông đang nơi đầu
sóng dữ,
Thăng Long lại giục mình giang tay níu đảo xa!
***
Đêm qua, trong giấc mơ
tôi thấy rồng Hà Nội lại thăng thiên. Con rồng ấy hình như là con rồng thời Lý
(1009-1225), rồng dáng dấp hiền hòa mềm mại mềm mại của rắn, nhỏ nhắn, thanh
thoát nhưng oai hùng, con rồng ấy lưng chừng trời ngắm nhìn thủ đô bốn hướng
rồi, rồng rướn mình bay về phía biển Đông. Trong miệng rồng mang theo lá thư
của người Thăng Long, mà không, của lòng người cả nước, được chấp bút từ Thăng
Long, trao gửi cho các chiến sĩ nơi biển xa đang gồng mình dập tắt những vòi
rồng quái gỡ đến từ Trung Hoa, bảo vệ giang sơn của đức Cha rồng chốn biển Đông
và trao cùng những con dân nước Việt đang thao thức, khắc khoải hàng ngày hàng
giờ với biển Việt mến yêu đang trong cơn nguy hiểm cận kề.
Với biển, người Hà Nội vẫn mang trong mình một duyên nợ.
Thuở xa xưa ấy, cư dân Hà
Nội còn ít ỏi, cư trú trên những dõi đất cao lập thành làng và mưu sinh ven các
hồ lớn như Hồ Tây (Dâm Đàm), Bảy Mẫu và ít nhiều trên các vùng đầm phá (Thanh
Trì). Người Hà Nội đặc biệt gắn bó với sông Hồng, coi đấy là con đường huyết
mạch về với ngược Bắc xuôi Đông.
Thuở
ấy, người Hà Nội chưa biết nhiều về biển như bây giờ, nói đến ai đi biển là nghĩ
đến cả một hành trình xa xôi và đầy mạo hiểm. Những người đi đến biển chủ yếu
là “dân thương hồ” và trong hình dung của người Thăng Long đấy là một điều gì
lớn lao phi thường. Đi du lịch, tắm biển lại là câu chuyện không chưa có trong
ý tưởng của người Hà Nội xưa.
Thi thoảng những cư dân
vùng Duyên Hải, theo sông Hồng mang cá muối lên đổi chác, buôn bán với kinh đô.
Người Thăng Long sử dụng thức ăn biển như một sản vật mà chủ yếu vẫn là đồ khô,
muối biển, mắm biển vì ngày ấy đường xa, đi lại khó khăn, lại chưa có dụng cụ
bảo quản lạnh như bây giờ. Những con tàu chở cá thường phủ lên những loại lá
vừa khử mùi, vừa bảo quản tránh ruồi, côn trùng xâm hại thực phẩm. Những con
thuyền đến và đi mang theo nỗi nhớ và niềm hi vọng, gắn kết biển với đất liền,
với những người yêu biển.
Cư
dân biển vùng duyên hải cũng không phải ai có cơ duyên đến với kinh đô, bởi “đường
ngái bái xa”, đi lại chủ yếu bằng thuyền bè và đi bộ, chỉ những quan lại và kẻ
sĩ thi thoảng có việc lên kinh kì, hoặc dân thương lái đi về đem ba câu chuyện
kinh đô văn hiến thanh lịch kể cho bà con, với họ thực sự cũng là một khám phá.
Kinh đô vẫn luôn ở trong lòng họ như một nỗi nhớ niềm mong, ao ước được một lần
trong đời được đặt chân đến.
Trong
tư duy người Thăng Long xa xưa, vùng biên giới phía Nam vẫn đất nước mới chỉ
dừng lại ở đất Nghệ Tĩnh, nơi mà xưa kia đền Cuông (Mộ Dạ) lưu dấu đức An Dương
Vương. Truyền thuyết còn lưu, nhà vua khi từ kinh thành Cổ Loa mấy ngày trời dong
ngựa chạy giặc đến đấy thì gặp biển bao la, không có đường tiến đành rút gươm
chém con gái rồi nhảy xuống biển sâu tự vẫn. Đấy là một huyền thoại nhắc nhở
người Việt về lòng cảnh giác, một sự cảnh giác cao độ với láng giềng phương
Bắc. Sau này, nhà thơ Tố Hữu đã có những câu thơ chứa chan tiếc nuối:
“Vẫn nhớ ngày xưa chuyện
Mỵ Châu
Trái tim lầm lỡ để trên
đầu
Nỏ thần vô ý trao tay
giặc
Nên
nỗi cơ đồ đắm biển sâu”.
Tư duy biển của người Hà
Nội-gắn liền với hình tượng con Rồng cháu Tiên thuở xa xưa trong huyền thoại nhất
là khi Lý Công Uẩn đời đô về lại đất này, tính kế muôn đời. Khi nhà Vua dời đô
từ Tràng An (Ninh Bình) về Đại La (Tống Bình- Hà Nội xưa) thì thấy rồng vàng
bay lên nên ngài đặt tên đất này là Thăng Long (hình tượng rồng bay) và rồi rồng
không trú ngụ trên trời xanh hay chốn non cao mà chỗ Rồng Việt cư trú là ở biển
đông, vì thế mới có Hạ Long (nơi rồng đáp xuống nước) và Bạch Long Vĩ (đuôi
rồng) nơi vùng Quảng Ninh ngày nay.
Người Đại Việt sau này
cũng coi trọng đất liền và cũng hướng về biển nhưng chủ yếu là biển ven bờ (cận
duyên). Ra khơi xa gió to sóng dữ những con thuyền mỏng manh đâu dễ và vì vậy
biển khơi với họ vẫn là một câu chuyện li kì, đầy huyền hoặc. Nhưng người Thăng
Long cũng như con dân Đại Việt luôn biết và luôn ghi nhớ những câu chuyện qua
các đời nối tiếp nhau dân mình đã thắng giặc trên những cửa sông lớn đổ ra biển
mà cửa biển Bạch Đằng là một tử huyệt khiếp đảm của quân Tống, sau nữa là quân
Nguyên Mông. Những Trận đánh sấm vang chớp giật ấy được các sử gia Thăng Long
chú tâm ghi lại cho con cháu muôn đời trong sử sách oai hùng của dân tộc. Nhờ
những trận đánh ấy mà thủ đô Thăng Long được giữ vững, giang san được vẹn toàn.
Vì
thế, các nhà quân sự sau Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo rất chú ý đến sông nước biển,
chú ý đến thủy quân. Những vùng biển hiểm trở đều là những huyệt đạo quân sự
đánh giặc dữ nước. Cửa biển Thần Phù trên đất Tam Điệp Ninh Bình ngày nay là
một yếu địa như thế. Qua được cửa biển Thần Phù phải mấy đời “tu”, và giặc qua
biển Thần Phù phải đóng thuyền lớn, đội chèo tinh nhuệ, thông thạo đi biển, nếu
không bỏ mạng tức thì. Thần Phù là nơi trấn giữ cận kề Thăng Long ở Phía Nam
thời Đại Việt.
Biển không phải là tất cả nhưng là thành tố
quan trọng bậc nhất hợp thành đất nước
Cư dân Việt cổ và nhà
nước Đại Việt sau này với lực lượng sản xuất còn thấp kém, chủ yếu vẫn khai phá
ở lãnh địa nông nghiệp. Vì thế hai thành tố đất, nước là hết sức quan trọng. Mẫu
Địa- mẹ đất, Mẫu thoải- mẹ nước. Đất sinh sôi và chở che vạn vật, nước tưới tắm
chăm bón sự sinh trưởng tạo nên đời sống phồn thực, tươi tốt. Hai yếu tố tối quan
trọng với cư dân nông nghiệp nên hai từ đất và nước ấy lại tạo thành một danh
từ mang nghĩa hàm ngôn là Quốc gia dân tộc.
Trong dân gian vẫn có
những từ kiểu dạng từ xuất phát từ những danh từ được sử dụng như vậy cũng để
chỉ đất nước, ví dụ: non nước (Sơn Hà). Non là núi, nước chỉ sông hồ; hai thực
thể vây quanh gắn bó với con người. Thêm nữa, với người Việt mình rừng cũng
quan trọng. Dân gian đã gán cho rừng hình tượng thiêng Mẫu Thượng Ngàn. Cho nên
bộ tứ Phủ: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thoải, Mẫu Thượng ngàn đã hợp thành không
gian vừa thực vừa huyền bí tâm linh tạo nên sự tính thiêng cho sự tồn tại của nước
Việt muôn đời nay.
Với
biển thì người Việt có một cảm thức khá đặc biệt. Trong tâm thức xa xưa thì cha
người Việt –Lạc Long Quân- một bản thể dương lại từ biển. Điều này được ghi dấu
trong truyền thuyết Lạc Long Quân và Nàng Âu Cơ sắc màu huyền thoại. Theo đó, chàng
Lạc Long Quân một ngày nọ, từ biển đi dạo vùng núi non đã gặp nàng tiên Âu Cơ
để rồi nên duyên sinh con đẻ cái từ đó tỏa đi lên rừng, xuống biển cai quản núi
sông và mưu sinh, đẻ ra lớp lớp cháu con người Việt sau này.
Như vậy, đến với biển của
người Việt là một quá trình có thể thấy từ vùng đất tổ Hùng Vương (Non cao,
Thượng ngàn) về với đồng bằng- sông (Địa-Thủy) và ven biển (Thủy) là một dòng
hợp lưu Rừng- Đồng bằng - Biển cả kiến tạo nên không gian đất nước, hội tụ đầy
đủ các thực thể tự nhiên quan trọng đối với đời sống của con người.
Trong so sánh với rừng, biển
cũng hung dữ hơn và mạo hiểm hơn rừng. Thường theo quan niệm dân gian, biển là
nơi quỷ dữ trú ngụ, là các loài thủy quái hành tàng, do vậy trấn biển phải
thường là các vị thần, thường là các vị thủy thần trong truyền thuyết như Long
Vương, Vua Thủy Tề, các vị thần hữu danh và vô danh, các vị nhân thần người
Việt và đó thường làm nam tính.
Ngũ vị Đẳng thần được cho
là có liên quan trực tiếp tới Biển Đông của Việt Nam [i],
đó là: Bạt hải Đại vương tôn thần, vị thần "hữu vi, vô danh"
tức có nhiều công giúp nước nhưng không biết đến danh tính, là một vị thần liên
quan trực tiếp đến biển. Ngài Thiên Quan Bình lãng Đại Vương, cũng là vị
Hữu vi Vô danh, là vị thần giúp nhân dân bình được sóng gió. Ba vị Mạnh
Tướng Đăng Kinh Đại Vương, Hỏa thần Đống Duy Đại Vương, Thần Kỳ
Cửa Chùa Đại Vương, là những vị Nhãn Thần, được coi như những con mắt dõi
theo và bảo vệ dân. Đó còn là những người có công khai phá biển, trấn biển là
những vị tướng quân được nhân dân ghi nhớ và tôn thờ như Nguyễn Công Trứ (khai
phá đất Thái Bình), Hưng nhượng Vương Trần Quốc Tảng (Hòn Gai, Cưả Ông), là tướng
công Trần Khánh Dư (Vân Đồn)... và đi biển thường là những nam dân vạn chài lực
lưỡng, ngực trần đón gió, lướt trên sóng đầy sức mạnh chiếm hữu như là các
chàng trai trong hải đội Hoàng Sa, Trường Sa của ngư dân đảo Lý Sơn.
Có một lịch sử dài hàng
trăm năm chống xâm lăng của người Việt gắn liền với biển, từ đời Lí, đời Trần
cho đến Tây Sơn, nhà Nguyễn và các cuộc chiến tranh về sau này. Trong chiến
chống Mỹ, những trận chiến trên biển, sự hình thành và hoạt động của đoàn tàu
không số vận chuyển bí mật tác chiến trên biển, mang vũ khí quân lực ra Bắc vào
Nam đã làm nên con đường Hồ Chí Minh huyền thoại trên biển đông, góp phần vào
thắng lợi chung của cuộc chiến tranh.
Nhưng với biển, người Đại
Việt thuở trước cho đến người Việt về sau này vẫn chủ yếu dừng lại ở đỉnh cao
chiến tranh, của nghệ thuật quân sự, đó không còn là điều phải bàn cãi.
Tư duy hướng biển của người Việt ngày càng rõ nét
Phải nói rằng, biển là
một phần từ lâu trong tâm thức Việt, của người Thăng Long nhưng do những hạn
chế khác nhau, sự chiếm hữu biển của người Việt, khoảng 7 thế kỉ đầu thời kì
Trung Đại, khi hình thành nhà nước tập quyền chuyên chế đến khi nhà Nguyễn khai
phá vùng đất phương Nam, vẫn còn nhiều hạn chế. Hạn chế trong việc vươn ra biển
lớn, hạn chế trong kĩ nghệ đóng tàu thuyền, trong hoạt động kinh tế biển và hàng
hải biển. Thậm chí đó không phải là điều được sử sách đề cập bao nhiêu. Nhưng
có lẽ trong tâm thức người Thăng Long nói riêng, người Đại Việt nói chung vẫn
theo con nước sông Hồng, sông Mã, sông Cả (sông Lam) về với cha biển Đông, mang
nỗi niềm từ hàng nghìn năm trước đó từng ấp ủ, coi biển như là một miền của cơ
thể đất nước chưa được khai phá, nơi nuôi dưỡng những tiềm năng đợi con cháu
muôn đời sau.
Mặc dù có những hạn chế về
phương tiện và kĩ thuật tiếp cận biển nhưng người Việt luôn mang trong mình một
tâm thế khai phá, do vậy, với cuộc Nam tiến của chúa Nguyễn mà khởi đầu là
nguyễn Hoàng đã vượt dãy Hoành Sơn (Kỳ Anh) đã mở ra một giang sơn mới ở phía
Nam đầy tiềm năng hứa hẹn sự trù phú lâu dài. Cũng từ đó, “tư duy hướng biển”,
theo con đường Nam tiến đã rộng mở hơn, rộng hơn và xa hơn và như cách nói của
nhà văn Nguyên Ngọc, người Việt có một “nỗi niềm biển Đông” trên hành trình nam
tiến ấy.
Các chúa Nguyễn (thế kỷ
XVII) đã lập các hải Đội Hoàng Sa, trường Sa đi tới các đảo vùng xa xôi ấy, đo
đạc, thu lượm sản vật và cai quản biên giới; kĩ nghệ hàng hải phát triển, giao
lưu và buôn bán với các nước lân bang bằng đường biển nở rộ thời kì bấy giờ.
Đến thời hiện đại, người
Việt “bận bịu” với chiến tranh, với kiến tạo trên đất liền, mà phần nào chưa
chú trọng biển. Từ hành trình khởi đầu từ các chúa Nguyễn (thế kỷ XVII) ấy,
phải đợi đến chừng 200 năm sau, năm 2007, người Việt mới có một chiến lược về
biển, và năm 2012, Luật biển Việt Nam ra đời, đánh dấu một sự trưởng thành
trong tư duy biển. Một hành trình quá dài và quá đỗi nhọc nhằn. Nhưng đó là cả
một quá trình dồn nén và tích tụ, chắc hẳn rồi đây, trước biển Đông, người Việt
sẽ phải có những tư duy mới về địa chính trị, về văn hóa biển, để không bỏ lỡ
hơn thêm những cơ hội cho giàu lên từ biển, mạnh lên với biển như chiến lược
biển Việt Nam đã đề ra.
Thư Thăng Long bay về phía biển
Đất nước có hơn 3260km
đường bờ biển, xuyên qua 28 tỉnh thành, với bao làng vạn chài mưu sinh nơi bể
rộng, song có lẽ khắc khoải nhiều nhất cho biển Đông vẫn là từ thủ đô Hà Nội,
có thể nói như vậy, bởi nơi đây là chốn trung tâm, nơi tập hợp những người nắm
giữ trọng trách của đất nước, nơi hội tụ tinh hoa hiểu biết sâu dày về lịch sử,
văn hóa nước Nam mình. Với ý nghĩa ấy, sự khắc khoải đó không còn là chỉ của riêng
Hà Nội nữa mà là sự khắc khoải tiêu biểu của muôn dân nước Việt với Biển Đông, với
khơi xa mà người Hà Nội nhận thấy trách nhiệm lớn của mình với biển, với sự an
nguy của chủ quyền biển đảo.
Quay
lại giấc mơ về lá thư Thăng Long. Lá thư ấy không là giấc mơ mà là chuyện thực
trong đời. Lá thư ấy hình như được bắt đầu từ vương triều nhà Lý, trao chuyển
qua nhà Trần và các đời vua sau trên cõi Đại Việt, lá thư ấy chuyển trao thông
điệp, rằng:
“Sông núi Nước Nam vua
Nam ở/Rành rành định phận tại sách trời/Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm/Chúng bay
sẽ bị đánh tơi bời”; “Kẻ nào dám đem một thước đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc
sẽ bị tội tru di” (Lê Thánh Tông); “các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu
ta phải cùng nhau giữ lấy nước” (Hồ Chí Minh)
Rằng: “rừng vàng biển bạc”
(ngạn ngữ), “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng, ngày nay ta có ngày, có trời, có
biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp ta phải biết giữ gìn lấy nó”; Và dù vật đổi sao
dời có một chân lí cũng không được bao giờ thay đổi, đó là: “Không có gì quý
hơn độc lập, tự do”.
Lá thư ấy, không được
viết bởi một người mà được chấp bút tiếp nối sâu đậm những dòng chữ của các bậc
minh quân mang ý chí của cả nước, hồn cốt của toàn dân tộc, của muôn nẻo kiếp
người, muôn con dân trên dãi đất nước non mến yêu này.
Ý chí ấy, đang được khẳng
định và tiếp nối bởi người đứng đầu cao nhất của nhà nước Việt Nam hôm nay-
Ngài Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang: “Chúng ta kiên quyết không để một tấc đất,
tấc biển nào của Tổ quốc bị xâm phạm. Đối với bất cứ người Việt Nam
nào, chủ quyền lãnh thổ quốc gia là thiêng liêng và bất khả xâm phạm”.
Người Việt, với tinh thần
hồn cốt Thăng Long, hào khí Đông A phải thực hiện cho được tâm nguyện của các
thế hệ Cha Ông về giữ vững độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Hà Nội, 2014
[i] [i] http://www.nhandan.com.vn/vanhoa/di-san/item/23142502-noi-dau-tien-tho-nhung-vi-than-giu-bien-dong.html